Thứ Bảy, 9 tháng 8, 2014

Tám mạch khác kinh (Phần 1)

TÁM MẠCH KHÁC KINH
(KỲ KINH BÁT MẠCH)
Mục tiêu
1. Nêu được tên gọi của 8 mạch khác kinh và xếp được 8 mạch thành 4 cặp tương ứng.
2. Mô tả chính xác lộ trình của 8 mạch khác kinh.
3. Trình bày được những tính chất chung trong sinh lý bình thường và trong bệnh lý của 8 mạch khác kinh.
4. Liệt kê và phân tích được triệu chứng chủ yếu và 4 triệu chứng phụ khi mạch khác kinh tương ứng có bệnh.
5. Nêu được tên gọi của 8 huyệt giao hội của 8 mạch khác kinh (bát mạch giao hội huyệt ).
6. Trình bày được cách sử dụng huyệt của 8 mạch khác kinh trong điều trị.
I. Đại cương
Tám mạch khác kinh (Kỳ kinh bát mạch) bao gồm các mạch:
− Mạch Xung
− Mạch âm kiểu
− Mạch Đới
− Mạch Dương kiểu
− Mạch Đốc
− Mạch âm duy
− Mạch Nhâm
− Mạch Dương duy
Những mạch khác kinh có nhiệm vụ liên lạc và điều hòa sự thịnh suy của khí huyết trong 12 kinh chính để đảm bảo sự cân bằng của cơ thể. Những nhà châm cứu xưa đã xem “những đường kinh như là sông, những mạch khác kinh như là hồ. Một cách tổng quát như sau:
− Các mạch Nhâm, Đốc, Xung, Đới: chức năng sinh đẻ.
− Mạch Dương kiểu, âm kiểu: chức năng vận động.
− Mạch Dương duy, âm duy: chức năng cân bằng.
A. Ý nghĩa của những tên gọi
Đốccó nghĩa là chỉ huy, cai trị. Mạch Đốc có lộ trình chạy theo đường giữa sau thân và quản lý tất cả các kinh dương của cơ thể, vì thế còn có tên “bể của các kinh dương.
Nhâmcó nghĩa là trách nhiệm, có chức năng hướng dẫn. Mạch Nhâm chạy theo đường giữa trước thân và quản lý tất cả các kinh âm, vì thế còn có tên “bể của các kinh âm.
Xungcó nghĩa là nơi tập trung, giao lộ. Mạch Xung nối những huyệt của kinh Thận ở bụng và ngực.
Kiểucó nghĩa là thăng bằng, linh hoạt. Đây cũng là tên gọi khác kinh cho mắt cá chân của các vũ công. Hai mạch Kiểu đều bắt nguồn từ mắt cá chân, có nhiệm vụ chỉ đạo các vận động của cơ thể, đến chấm dứt ở khóe mắt trong để duy trì hoạt động của mí mắt.
Duycó nghĩa là nối liền. Mạch âm duy có lộ trình ở phần âm của cơ thể và nối các kinh âm với nhau. Mạch Dương duy có lộ trình ở phần dương của cơ thể và nối các kinh dương với nhau.
Đới có nghĩa là đai. Mạch đới chạy vòng quanh thân, bên dưới các sườn và bọc lấy những đường kinh chính như bó lúa (ngoại trừ kinh Can và kinh Bàng quang).
B. Đặc điểm chung của 8 mạch khac kinh
1. Những mạch khác kinh tạo thành 4 hệ thống, bao gồm:
− Hai hệ thống mạch âm - âm
− Hai hệ thống mạch dương - dương.
Có nghĩa là 4 hệ thống liên lạc được gọi “hệ thống chủ - khách”
− Hệ thống 1: mạch Xung (âm) với mạch âm duy (âm).
− Hệ thống 2: mạch Nhâm (âm) với mạch âm kiểu (âm).
− Hệ thống 3: mạch Đốc (dương) với mạch Dương kiểu (dương).
− Hệ thống 4: mạch Đới (dương) với mạch Dương duy (dương).
2. Những mạch khác kinh không có lộ trình đi sâu vào các tạng phủ, ngoại trừ có một số mạch đi vào phủ khác thường (mạch Đốc, Xung, Nhâm đi từ dạ con (nữ tử bào; mạch Đốc vào não tủy). Mạch khác kinh là những đường dẫn tinh khí của Thận lên đầu.
3. Trừ mạch Đới đi vòng quanh lưng, 7 mạch còn lại đều đi từ dưới lên và tất cả đều bắt nguồn từ Thận - Bàng quang.
Thiên Động du, sách Linh khu có đoạn: “Xung mạch là biển của 12 kinh, cùng với đại lạc của kinh túc thiếu âm, khởi lên từ bên dưới Thận (khởi vu Thận hạ)...”.
Thiên Bản du, sách Linh khu có đoạn: “Mạch Nhâm và Đốc bắt nguồn từ Thận và thông với âm dương của trời đất”.
Những mạch âm kiểu, Dương kiểu, âm duy và Dương duy xuất phát tuần tự từ những huyệt chiếu hải, thân mạch, trúc tân, kim môn thuộc hệ thống Thận - Bàng quang.
4. Những mạch khác kinh không gắn với ngũ hành, không có quan hệ biểu lý như kinh chính.
5. Chỉ có 2 mạch Nhâm và Đốc có huyệt riêng, các mạch còn lại đều mượn huyệt của các đường kinh chính khi nó đi qua.
C. Phương pháp sử dụng kỳ kinh bát mạch
Những mạch khác kinh có quan hệ chặt chẽ với những kinh chính. Người xưa đã ví kinh chính như sông, mạch khác kinh như hồ. Sự quan hệ này được thể hiện ở bát mạch giao hội huyệt.
Trong bệnh lý rối loạn của mạch khác kinh, phương pháp chọn huyệt như sau:
− Chọn giao hội huyệt của mạch bị bệnh.
− Kế tiếp là những huyệt điều trị triệu chứng.
− Cuối cùng là huyệt giao hội của mạch khác kinh có quan hệ chủ - khách với mạch bị bệnh.
Do phương pháp sử dụng trên nên kỳ kinh bát mạch được khảo sát theo 4 hệ thống chủ khách.
− Hệ thống 1: âm - âm: mạch Xung với mạch âm duy.
− Hệ thống 2: âm - âm: mạch Nhâm với mạch âm kiểu.
− Hệ thống 3: dương - dương: mạch Đốc với mạch Dương kiểu.
− Hệ thống 4: dương - dương: mạch Đới với mạch Dương duy.
Chúng tôi không đề cập trong bài này phương pháp sử dụng bát mạch giao hội huyệt theo Linh quy bát pháp. Phương pháp sử dụng huyệt theo thời gian “mở” của những huyệt khóa này sẽ được trình bày trong phương pháp châm theo Linh quy bát pháp (xin tham khảo tên bài tương ứng trong tập Phương pháp châm cứu).
Kỳ kinh bát mạch
- Hệ thống 8 mạch khác kinh gồm: mạch Xung, mạch âm kiểu, mạch Dương kiểu, mạch âm duy, mạch Dương duy, mạch Nhâm, mạch Đốc và mạch Đới.
- Tất cả 8 mạch khác kinh dều bắt nguồn (trực tiếp hay gián tiếp) từ hệ thống Thận - Bàng quang.
- Tám mạch khác kinh tạo thành 4 hệ thống chủ - khách gồm:
+ Mạch Xung và mạch Âm duy
+ Mạch Nhâm và mạch Âm kiểu
+ Mạch Đốc và mạch Dương kiểu
+ Mạch Đới và mạch Dương duy
- Hệ thống 8 mạch khác kinh thường được sử dụng trong:
+ Hỗ trợ chẩn đoán và điều trị những bệnh khó (những đường kinh như là sông, những mạch khác kinh như là hồ).
+ Điều trị theo Linh quy bát pháp (sử dụng bát mạch giao hội huyệt).
- Cách phối huyệt trong sử dụng kỳ kinh bát mạch
+ Huyệt số 1 (huyệt mở - huyệt khai): giao hội huyệt của mạch bị bệnh (hoặc có liên hệ đến bệnh được chẩn đoán).
+ Kế tiếp là những huyệt điều trị triệu chứng
+ Huyệt cuối cùng (huyệt đóng - huyệt hạp): huyệt giao hội của mạch có quan hệ chủ-khách với mạch bị bệnh.
II. Hệ thống mạch xung, mạch âm duy
Lộ trình của mạch Xung sử dụng những huyệt của kinh Thận, lộ trình của mạch âm duy sử dụng những huyệt của kinh Tỳ và kinh Can. Lộ trình của chúng đi theo những kinh âm chính và nối với mạch Nhâm tại huyệt liêm tuyền.
A. Mạch xung
1. Lộ trình đường kinh
Mạch Xung khởi nguồn từ Thận. Từ Thận, mạch Xung chạy xuống dưới đến huyệt hội âm của mạch Nhâm. Từ đây, mạch Xung chia làm 2 nhánh:
− Nhánh sau: chạy đến mặt trong của cột sống.
− Nhánh trước: theo mạch Nhâm đến huyệt quan nguyên. Từ đây đến nối với huyệt hoành cốt (ngang trung cực, cách 1/2 thốn), chạy dọc theo kinh Thận đoạn ở bụng đến huyệt u môn (ngang cự khuyết, cách 1/2 thốn). Trên đoạn ở bụng này, mạch Xung có những nhánh nhỏ nối với kinh cân ở trường vị. Đường kinh chạy tiếp tục lên trên theo kinh Thận đến huyệt du phủ. Trên đoạn đường ở ngực, mạch Xung lại cũng cho nhiều nhánh nối với các khoảng liên sườn. Đường kinh chạy tiếp tục lên hầu họng và nối với huyệt liêm tuyền của mạch Nhâm và sau đó lên mặt, vòng quanh môi.
Từ huyệt hoành cốt có nhánh đi xuống theo mặt trong đùi để đi chung với kinh Thận (sách Linh khu, Thiên Động du) đến bắp chân, mắt cá trong. Trên đoạn này, mạch Xung có nhiều nhánh đến những vùng của chi dưới nhằm làm “ấm cho chân và cẳng chân”.
Cũng từ huyệt Hoành cốt, có 1 nhánh khác đến huyệt khí xung của kinh Vị, sau đó tiếp tục đi chéo xuống mặt sau cẳng chân và chấm dứt ở ngón chân cái. Thiên 62 sách Linh khu có ghi “...Khi xuống dưới chân, nó có 1 chi biệt đi lệch vào bên trong mắt cá, xuất ra trên mu bàn chân, nhập vào trong khoảng ngón chân cái, rót vào các lạc mạch, nhằm làm ấm cho chân và cẳng chân.
2. Những mối liên hệ của mạch Xung
− Liên hệ với kinh chính Thận: ở đoạn bụng ngực, mạch Xung mượn những huyệt của kinh Thận (hoành cốt, u môn, du phủ).
− Liên hệ với mạch Nhâm: mạch Xung có những nhánh đến nối với mạch Nhâm ở mặt tại huyệt liêm tuyền thừa tương, đến vùng bụng dưới nối với huyệt quan nguyên, âm giao.
− Liên hệ với kinh chính Vị: tại huyệt khí xung để từ đó chạy tiếp xuống mặt trong cẳng chân.
− Liên hệ với mạch âm duy trong mối quan hệ chủ khách.
3. Triệu chứng khi mạch Xung rối loạn
Một cách tổng quát, dựa vào lộ trình đường kinh, chúng ta có thể thấy những biểu hiện sau:
3.1. Do rối loạn nhánh ở bụng
− Đau vùng thắt lưng, cảm giác hơi bốc từ bụng dưới.
− Đau tức bụng dưới, ói mửa sau khi ăn.
− ở phụ nữ:
+ Ngứa âm hộ, đau sưng âm hộ.
+ Kinh kéo dài, sa tử cung, thống kinh.
+ Co thắt âm hộ, huyết trắng, hiếm muộn.
− ở đàn ông:
+ Sưng đau dương vật, tinh hoàn; viêm niệu đạo.
+ Liệt dương, di tinh.
3.2. Do rối loạn nhánh ngực và mặt − Đau vùng trước tim.
− Khó thở kèm cảm giác hơi bốc ngược lên.
− Khô họng, nói khó.
Theo sách Châm cứu đại thành (quyển 5): “Những triệu chứng khi mạch Xung có bệnh: tức ngực, đau thượng vị, ói mửa sau khi ăn, hơi dồn ở ngực, đau hạ sườn, đau quanh rốn, bệnh ở trường vị do phong kèm sốt, ớn lạnh và đau vùng tim. ở phụ nữ, bệnh phụ khoa, sót nhau, rong kinh”.
4. Huyệt khai (giao hội huyệt của mạch Xung) và cách sử dụng
Huyệt công tôn là huyệt khai của mạch Xung, nằm ở mặt trong bàn chân, trước đầu sau của xương bàn ngón 1. Huyệt công tôn có quan hệ với huyệt nội quan trong bát mạch giao hội huyệt (mối quan hệ chủ khách).
Phương pháp sử dụng:
− Huyệt đầu tiên châm là: huyệt công tôn.
− Kế tiếp là những huyệt điều trị.
− Cuối cùng là huyệt nội quan.
Mạch xung
- Lộ trình mạch Xung có những đặc điểm:
+ Quan hệ chặt chẽ với mạch Nhâm ở bụng dưới (hệ thống sinh dục - tiết niệu).
+ Phân bố ở các khoảng liên sườn ở ngực (đoạn theo kinh Thận ở ngực)
+ Phân bố mặt trong chi dưới (giống như kinh chính Thận)
- Do những đặc điểm phân bố trên mà những rối loạn của sinh dục - tiết niệu, triệu chứng đau vùng trước tim, khó thở… là những chỉ định điều trị của mạch Xung.
- Những huyệt mà mạch Xung mượn đường để đi: hoành cốt, u môn, du phủ (kinh Thận); quan nguyên, âm giao, liêm tuyền, thừa tương (mạch Nhâm); khí xung (kinh Vị).
- Giao hội huyệt của mạch Xung: công tôn.
B. Mạch âm duy
1. Lộ trình đường kinh
Mạch âm duy xuất phát từ huyệt trúc tân của kinh Thận, đi dọc lên trên theo mặt trong của đùi đến nếp bẹn tại huyệt phú xá (kinh Tỳ), đến bụng tại huyệt đại hoành và phúc ai (kinh Tỳ), đến cạnh sườn tại huyệt kỳ môn (kinh Can), xuyên cơ hoành lên ngực vào vú, lên cổ tại huyệt thiên đột và liêm tuyền của mạch Nhâm.
2. Những mối liên hệ của mạch âm duy
Mạch âm duy có quan hệ với:
− Kinh chính của Thận: mạch âm duy khởi phát từ huyệt trúc tân của kinh Thận.
− Kinh chính Tỳ (phú xá, đại hoành, phúc ai), kinh Can (kỳ môn) và mạch Nhâm (liêm tuyền, thiên đột).
Vì những mối quan hệ trên mà mạch âm duy có chức năng nối liền tất cả các kinh âm của cơ thể, điều hòa quan hệ giữa các kinh âm để duy trì sự thăng bằng của cơ thể.
3. Triệu chứng khi mạch âm duy bị rối loạn
Rối loạn chủ yếu khi mạch âm duy bị bệnh là đau vùng tim.
Trong Y học nhập môn có đoạn “Mạch âm duy nối liền các khí âm. Nếu khí này không hành thì huyết sẽ không hành được và gây chứng đau ở tim”.
Trong Châm cứu đại thành: “Mạch âm duy khởi ở hội của kinh âm. Nếu khí âm không nối liền với khí âm, người bệnh sẽ bất định. Chứng bệnh chủ yếu là đau vùng tim”.
Nêu rõ vấn đề này, Trung y học khái luận có đoạn: “Khi mạch âm duy bệnh, người bệnh than đau ở tim vì mạch âm duy nối các kinh âm và nằm ở phần âm của cơ thể”.
Một cách tổng quát, chứng hậu đau vùng tim gây nên do huyết ứ tại mạch âm duy và do mạch âm duy nối liền với các kinh (Tỳ, Can) và mạch Nhâm nên chứng đau ngực này có nhiều loại khác nhau:
− Đau ngực có liên quan đến Tỳ (kiểu Tỳ): đau ngực có đặc điểm như kim đâm. Có thể có kèm với mất ý thức và đau đầu. Thiên 24, sách Linh khu có nêu “Chứng quyết tâm thống làm cho bệnh nhân đau như dùng cây chùy đâm vào Tâm. Tâm bị thống nặng gọi là Tỳ tâm thống....
− Đau ngực có liên quan đến Can (kiểu Can): đau ngực kiểu Can rất nặng làm bệnh nhân không thở được, có thể kèm với đau đầu vùng thái dương. Thiên Quyết bệnh sách Linh khu: “Chứng quyết tâm thống làm cho sắc mặt bị xanh, xanh như màu của người chết, suốt ngày không thở được một hơi dài....
− Đau ngực có liên quan đến mạch Nhâm (đau ngực kiểu mạch Nhâm): loại đau ngực này đồng nghĩa với rối loạn toàn bộ 3 kinh âm và như thế tạo nên ngay tức khắc sự mất cân bằng âm dương của cơ thể dẫn đến đau vùng tim. Đau ngực này có đặc điểm lan ra sau lưng; thường kèm với đau hạ sườn, đau vùng cổ gáy....Thường xuất hiện triệu chứng co thắt ngực hoặc hơi dồn lên hay cảm giác thiếu hơi. Đau đầu trong loại này thường khởi đầu ở cổ rồi lan xuống vùng thận.
4. Huyệt khai (giao hội huyệt của mạch âm duy) và cách sử dụng
Huyệt khai của mạch âm duy là nội quan, nằm trên nếp cổ tay 2 thốn, giữa gân cơ gan bàn tay lớn và gan bàn tay bé. Huyệt nội quan có quan hệ với huyệt công tôn (mối quan hệ chủ - khách) trong bát mạch giao hội huyệt.
Phương pháp sử dụng:
− Huyệt đầu tiên châm là: huyệt nội quan.
− Kế tiếp là những huyệt điều trị.
− Cuối cùng là huyệt công tôn.
Mạch âm duy
- Mạch Âm duy có chức năng nối liền tất cả các kinh âm của cơ thể, điều hoà quan hệ giữa các kinh âm để duy trì sự thăng bằng của cơ thể.
- Tất cả các kinh Âm đều bắt nguồn hoặc chấm dứt ở ngực. Do đó, rối loạn mạch Âm duy sẽ sinh chứng đau ở ngực.
- Những huyệt mà mạch Âm duy mượn đường để đi: phú xá, đại hoành, phúc ai (kinh Tỳ); liêm tuyền, thiên đột (mạch Nhâm); kỳ môn (kinh Can); trúc tân (kinh Thận).
- Giao hội huyệt của mạch Xung: nội quan.

Hình 6.1. Mạch Xung và mạch âm duy
III. Hệ thống mạch nhâm, mạch âm kiểu
Mạch Nhâm và mạch âm kiểu là hệ thống thứ 2 mang tính chất âm của 8 mạch khác kinh. Một cách tổng quát, mạch Nhâm hội khí của 3 kinh âm và điều hòa phần trước của cơ thể; mạch âm kiểu điều hòa phần trước của bụng. Như thế mạch Nhâm và mạch âm kiểu có cùng một số tính chất chung:
− Điều hòa khí âm ở phần trước cơ thể.
− Có những huyệt hội chung với nhau (tình minh và trung cực).
A. Mạch nhâm
1. Lộ trình đường kinh
− Mạch Nhâm khởi lên từ Thận, đến vùng hội âm tại huyệt hội âm, chạy vòng ngược lên xương vệ, qua huyệt quan nguyên, theo đường giữa bụng ngực lên mặt đến hàm dưới tại huyệt thừa tương.
− Từ huyệt thừa tương có những mạch vòng quanh môi, lợi rồi liên lạc với mạch Đốc tại huyệt ngân giao. Cũng từ huyệt thừa tương xuất phát 2 nhánh đi lên 2 bên đến huyệt thừa khấp rối đi sâu vào trong mắt.
2. Những mối liên hệ của mạch Nhâm
− Mạch Nhâm có vai trò rất quan trọng trong vận hành khí huyết ở phần âm của cơ thể (vùng bụng ngực).
− Mạch Nhâm là nơi hội tụ của 3 kinh âm ở chân:
+ Trung quản là huyệt hội của khí thái âm.
+ Huyệt ngọc đường là huyệt hội của khí quyết âm.
+ Huyệt liêm tuyền là huyệt hội của khí thiếu âm.
3. Triệu chứng khi mạch Nhâm rối loạn
Khi mạch Nhâm rối loạn, chủ yếu xuất hiện những triệu chứng sau:
− Đau tức vùng bụng dưới.
− Hơi dồn từ dưới lên.
Thiên 41 sách Tố vấn: “Bệnh ở mạch Nhâm làm đau thắt lưng, đau trước .......... vùng thấp kèm xuất hạn mồ hôi; mồ hôi xuất ra, người bệnh khát nhiều...”.
− Những biểu hiện bệnh lý:
+ ở nam: co rút bìu, đau tinh hoàn, tinh hoàn ứ nước.
+ ở nữ: khí hư, rối loạn kinh nguyệt, hiếm muộn.
4. Huyệt khai (giao hội huyệt của mạch Nhâm) và cách sử dụng
Huyệt liệt khuyết là huyệt khai của mạch Nhâm, nằm ở bờ ngoài cẳng tay, trên nếp cổ tay 1,5 thốn. Huyệt liệt khuyết có quan hệ với huyệt chiếu hải của mạch âm kiểu (mối quan hệ chủ - khách).
Theo sách Châm cứu đại thành, huyệt liệt khuyết được chỉ định trong những trường hợp: trĩ, sa trực tràng, khạc đờm có máu, tiểu khó, tiểu máu, đau vùng tim, đau bụng. ở phụ nữ dùng chữa chứng rối loạn tinh Thần sau khi sinh kèm đau khớp, đau lưng, lạnh quanh rốn, thai chết trong bụng, đau thắt lưng.
Phương pháp sử dụng:
− Huyệt đầu tiên châm là: huyệt liệt khuyết.
− Kế tiếp là những huyệt điều trị.
− Cuối cùng là huyệt chiếu hải.
Mạch nhâm
- Mạch nhâm có những đặc điểm:
+ Mạch khác kinh có huyệt riêng của mình (không mượn huyệt của các đường kinh khác để đi).
+ Phân bố chủ yếu vùng bụng và ngực (phần âm của cơ thể).
- Do những đặc điểm phân bố trên mà những rối loạn của sinh dục - tiết niệu là những chỉ định điều trị của mạch Nhâm.
- Giao hội huyệt của mạch Nhâm: liệt khuyết

Hình 6.2. Mạch Nhâm và mạch Âm kiểu
B. Mạch âm kiểu
1. Lộ trình đường kinh
− Mạch âm kiểu xuất phát từ kinh chính Thận (từ huyệt nhiên cốc), chạy đến huyệt chiếu hải (nằm ngay dưới mắt cá trong) rồi đến huyệt giao tín; chạy lên theo mặt trong cẳng chân và đùi, đi vào trong bụng dưới; chạy theo mặt trong thành bụng lên ngực và xuất hiện ở hố thượng đòn tại huyệt khuyết bồn, chạy tiếp đến huyệt nhân nghinh; chạy tiếp lên mặt, đi sâu vào xương hàm trên và đến tận cùng ở khóe mắt trong để nối với túc thái dương Bàng quang kinh tại huyệt tình minh (huyệt giao hội của các kinh thái dương, dương minh và mạch âm kiểu).
2. Những mối liên hệ của mạch âm kiểu Mạch âm kiểu có những liên hệ với:
− Kinh chính Thận qua việc xuất phát từ huyệt nhiên cốc của kinh Thận và thông qua những huyệt chiếu hải, giao tín.
− Kinh chính của Vị thông qua những huyệt khuyết bồn nhân nghinh.
− Mạch Nhâm trong mối quan hệ chủ - khách và thông qua huyệt trung cực.
3. Triệu chứng khi mạch âm kiểu rối loạn
Triệu chứng chủ yếu xuất hiện khi mạch âm kiểu bị rối loạn là tình trạng ngủ gà hoặc ly bì.
Thiên Đại luận, sách Linh khu có đoạn: “Khi mà vệ khí lưu lại ở âm phận mà không vận hành đến được nơi dương phận thì âm khí sẽ bị thịnh. âm khí thịnh thì mạch âm kiểu đầy.... vì thế mắt cứ phải nhắm lại”.
Thiên thứ 21 (Hàn nhiệt bệnh), sách Linh khu có đoạn: “Khi đầu hay mắt bị khổ thống, thủ huyệt nằm ở giữa 2 đường gân giữa cổ nhập vào não. Đây là nơi tương biệt với mạch âm kiểu và Dương kiểu, là nơi giao hội giữa các đường kinh âm dương, là nơi mà mạch Dương kiểu nhập vào âm và mạch âm kiểu xuất ra ở dương để rồi giao nhau ở khóe mắt trong. Khi nào dương khí thịnh thì mắt mở trừng, khi nào âm khí thịnh thì mắt nhắm lại”.
Để tổng kết về triệu chứng chủ yếu của mạch âm kiểu khi bị rối loạn, có thể nêu ra đây đoạn văn sau trong Trung y học khái luận, chương I: “Khi mạch âm kiểu bị rối loạn, dương khí của cơ thể bị hư, âm khí trở nên thịnh. Vì thế người bệnh luôn luôn cảm thấy buồn ngủ.
Một triệu chứng khác cũng được đề cập trong những tài liệu kinh điển khi mạch âm kiểu bị rối loạn là chứng nói khó. Thiên 41, sách Tố vấn có đoạn: “Mạch âm kiểu cảm phải ngoại tà, làm đau thắt lưng lan đến cổ, người bệnh nhìn thấy mờ. Nếu cảm nặng, thời người ngửa ra sau, lưỡi cứng và không nói ra được.
Ngoài ra mạch âm kiểu còn được đề cập đến trong trị liệu chứng đau nhức mà vị trí đau khó xác định.
Thiên Quan năng, sách Linh khu có đoạn: “Nếu có chứng đau nhức mà không có bộ vị nhất định, ta chọn huyệt thân mạch là nơi mà mạch Dương kiểu đi qua, hoặc huyệt chiếu hải là nơi mà mạch âm kiểu đi qua; ở người đàn ông thì ta chọn mạch Dương kiểu, ở người đàn bà thì ta chọn mạch âm kiểu”.
4. Huyệt khai (giao hội huyệt) của mạch âm kiểu và cách sử dụng
Huyệt khai của mạch âm kiểu là huyệt chiếu hải của kinh Thận, nằm ở hõm dưới mắt cá trong. Huyệt chiếu hải có quan hệ với huyệt liệt khuyết trong mối quan hệ chủ - khách của hệ thống mạch Nhâm và mạch âm kiểu.
Theo sách Châm cứu đại thành thì huyệt chiếu hải được sử dụng trong những trường hợp co thắt thanh quản, tiểu đau, đau bụng dưới, đau vùng hố chậu, tiểu máu lẫn đàm nhớt. Trên người phụ nữ, có thể dùng điều trị khó sinh do tử cung không co bóp, rong kinh.
Phương pháp sử dụng:
− Trước tiên là châm huyệt chiếu hải.
− Kế tiếp là châm nhữmg huyệt trị triệu chứng.
− Cuối cùng chấm dứt với huyệt liệt khuyết.
Mạch âm kiểu
- Mạch âm kiểu có đặc điểm: mạch đi từ mắt cá trong đến khoé mắt trong. Lộ trình của mạch Âm kiểu theo phần âm của cơ thể (mặt trong chi dưới, mặt trong bụng ngực).
- Mạch Âm kiểu được chỉ định trong điều trị những trường hợp âm khí thịnh (dương khí hư suy): tri giác lơ mơ, ngủ gà, nói khó, cứng lưỡi.
- Những huyệt mà mạch Âm kiểu mượn đường để đi: khuyết bồn, nhân nghinh (kinh Vị); nhiên cốc, chiếu hải, giao tín (kinh Thận).
- Giao hội huyệt của mạch Âm kiểu: chiếu hải.
IV. Hệ thống mạch đốc, mạch dương kiểu
Mạch Đốc và mạch Dương kiểu hợp thành hệ thống mạch thứ nhất mang tính chất dương. Cả 2 mạch đều có một đặc điểm chung là phân bố ở vùng phần dương của cơ thể và hợp nhau ở huyệt tình minh nhánh lên của mạch Đốc theo kinh cân của túc thái dương đến cổ, mặt rồi đến huyệt tình minh. Mạch Dương kiểu chạy theo vùng dương của cơ thể lên mặt và tận cùng ở huyệt tình minh).
A. Mạch Đốc
1. Lộ trình đường kinh
− Mạch Đốc bắt nguồn từ Thận, chạy đến huyệt hội âm, chạy tiếp đến huyệt trường cường. Từ đây đường kinh chạy tiếp lên trên dọc theo cột sống đến cổ tại huyệt phong phủ (từ đây đường kinh có nhánh đi sâu vào não), chạy tiếp lên đỉnh đầu đến huyệt bách hội, vòng ra trước trán, xuống mũi, môi trên (huyệt nhân trung) và ngân giao ở nướu răng hàm trên.
Từ huyệt phong phủ (ở gáy), có nhánh đi ngược xuống 2 bả vai để nối với kinh cân của túc thái dương Bàng quang, chạy tiếp xuống mông và tận cùng ở bộ sinh dục - tiết niệu. Từ đây (từ huyệt trung cực) xuất phát 2 nhánh:
− Nhánh đi lên trên: theo kinh cân Tỳ đến rốn. Tiếp tục đi lên theo mặt sau thành bụng, qua Tâm, xuất hiện trở ra ngoài da ở ngực để nối với kinh cân của Bàng quang ở ngực, chạy tiếp đến cổ, mặt, đi sâu vào đồng tử và chấm dứt ở huyệt tình minh.
− Nhánh đi xuống: theo bộ phận sinh dục - tiết niệu đến trực tràng, đến mông (nối với kinh cân Bàng quang tại đây) rồi chạy ngược lên đầu đến tận cùng ở huyệt tình minh (từ đây đi sâu vào não). Lại theo kinh chính Thận đi xuống đến thắt lưng ở huyệt Thận du rồi cho nhánh đi vào Thận.
2. Những mối liên hệ của mạch Đốc
Mạch Đốc nhận tất cả kinh khí từ các đường kinh dương của cơ thể (bể của các kinh dương). Mạch Đốc cùng với tất cả những kinh dương (thái dương, dương minh, thiếu dương) hòa hợp với nhau và tạo thành dương của cơ thể.
Mạch Đốc có tác dụng:
− Điều chỉnh và phấn chấn dương khí toàn thân.
− Duy trì nguyên khí của cơ thể.
3. Triệu chứng khi mạch Đốc bị rối loạn
Tùy theo tình trạng thực hay hư mà có biểu hiện khác nhau:
− Trong trường hợp thực: đau và cứng cột sống.
− Trong trường hợp hư: cảm giác đầu trống rỗng, váng đầu.

(Nội dung này có nhiều phần, xem phần tiếp theo bên dưới)
Nguồn: Châm Cứu Học - NXB Y Học - 2007
Chủ biên: PGS.TS. Phan Quan Chí Hiếu

1 nhận xét: