Thứ Hai, 11 tháng 8, 2014

Viêm đa dây thần kinh (Phần 2)

Huyết thanh kháng bạch hầu: trẻ em 30.000 đơn vị, người lớn 60.000 đơn vị. Khi đã có triệu chứng Thần kinh, vẫn tiếp tục sử dụng huyết thanh điều trị, nếu lúc khởi đầu bệnh nhân chưa được điều trị đầy đủ bằng huyết thanh.
B. VIêM NHIềU DâY Thần KINH
Đây là bệnh viêm nhiều dây Thần kinh lan tỏa, tổn thương đồng thời ở nhiều dây Thần kinh cách xa nhau, tổn thương không đối xứng, không đồng bộ, biểu hiện bằng các triệu chứng đau, liệt và teo cơ. Trong giai đoạn đầu, bệnh giống như viêm một dây Thần kinh. Trong quá trình tiến triển, tổn thương nhiều dây Thần kinh giống như trong bệnh viêm đa dây Thần kinh.
Nguyên nhân gây bệnh chính xác và cơ chế sinh bệnh còn đang được tranh luận. Các nguyên nhân chiếm tỷ lệ hàng đầu là viêm nút quanh động mạch và các bệnh lý về mạch máu, bệnh tiểu đường, bệnh porphyrie cấp, bệnh phong, các bệnh về nhiễm độc, nhiễm trùng. Còn lại một số khác không rõ nguyên nhân.
Về bệnh sinh, hiện có 3 cơ chế được đề cập:
Hiện tượng thiếu máu: được đề cập đến trong các bệnh viêm nút quanh động mạch, các bệnh về mạch máu, tiểu đường, bệnh amylose, bệnh porphyrie.
− Hiện tượng thâm nhiễm và chèn ép sợi Thần kinh: hay thấy trong bệnh phong.
Hiện tượng rối loạn dinh dưỡng tại chỗ: xảy ra nguyên phát hoặc thứ phát sau quá trình thiếu máu và chèn ép.
Các yếu tố tại chỗ tổn thương: phân tích được các yếu tố này rất khó
1. Lâm sàng
1.1. Bệnh cảnh chung
Khởi đầu đột ngột trong vài phút đến vài giờ với các triệu chứng dị cảm, đau kiểu rễ và thân dây Thần kinh, ít khi xuất hiện các triệu chứng của dây Thần kinh sọ não. Bệnh tiến triển tăng dần.
Triệu chứng vận động xuất hiện: giảm vận động, giảm phản xạ gân cơ.
Rối loạn cảm giác khách quan không rõ rệt, xảy ra chậm hơn dấu vận động và khu trú ở vùng thân các dây Thần kinh bị tổn thương. Các dây Thần kinh thường bị tổn thương là: Thần kinh hông khoeo ngoài bên trái hoặc 2 bên, Thần kinh trụ bên phải hoặc Thần kinh quay.
Để chẩn đoán, dùng phương pháp kích thích dòng điện, ghi điện cơ. Khi có tổn thương cả rễ dây Thần kinh sẽ có phản ứng tăng nhẹ đạm trong dịch não tủy.
Diễn tiến tùy thuộc vào nguyên nhân và tuỳ thuộc điều trị, liệt có thể khỏi hoàn toàn hoặc giảm một phần hay ngược lại bệnh nặng dần với thương tổn ngày một lan rộng hơn.
1.2. Thể lâm sàng theo nguyên nhân
1.2.1. Viêm nhiều dây thần kinh do các bệnh của động mạch
a. Viêm nút quanh động mạch
Bệnh còn được gọi là bệnh Kussmaul - Maier. Những biểu hiện về Thần kinh thường xuất hiện sau các triệu chứng đặc biệt của bệnh này khoảng 4 tháng (xuất hiện những hạt ngoài da, không màu sắc và khó nhận định rõ). Bệnh nhân có triệu chứng đau lan tỏa, mệt mỏi, sốt, tổng trạng kém; có triệu chứng cao huyết áp, triệu chứng về thận, khớp.
Triệu chứng Thần kinh: 2/3 trường hợp bệnh khởi đầu ở 2 chi dưới (Thần kinh hông khoeo ngoài bị nhiều hơn Thần kinh hông khoeo trong), ít khi có biểu hiện ở chi trên. Triệu chứng nổi bật là cơn đau rất dữ dội kèm dị cảm (ngược lại rối loạn cảm giác khách quan không rõ ràng và bị che mờ bởi dị cảm), đau lan theo dây Thần kinh hoặc đau kiểu rễ. Teo cơ xảy ra nhanh chóng, kèm theo là phù dinh dưỡng, rối loạn vận mạch ở phần ngọn chi, xảy ra cùng lúc hoặc trước khi liệt. Liệt các dây Thần kinh như dây Thần kinh da cánh tay trong. Các dây Thần kinh sọ não ít bị tổn thương (nếu có hay gặp liệt mặt hoặc liệt Thần kinh vận nhãn).
Diễn tiến tự nhiên của bệnh phần lớn các trường hợp không khả quan. Do điều trị bằng corticoid, triệu chứng có giảm. ở giai đoạn này có khi mới thấy rõ tính cách liệt không đối xứng và liệt thân dây Thần kinh.
Trong viêm nút quanh động mạch, có khi biểu hiện của thể VĐDTK hướng lên của Landry. Các biểu hiện của viêm dây Thần kinh ngoại biên có thể đi kèm với hội chứng liệt nửa người, hội chứng màng não hoặc bệnh cơ.
Xét nghiệm dịch não tủy: bình thường hoặc đạm tăng nhẹ (nếu không có hội chứng màng não). Điện cơ cho thấy có tổn thương ở dây Thần kinh ngoại biên và tại cơ. Sinh thiết da và cơ sẽ thấy tổn thương đặc hiệu của mạch máu trong bệnh viêm nút quanh động mạch.
b. Bệnh viêm động mạch có biểu hiện giống viêm nút quanh động mạch Các bệnh của chất tạo keo khác: Lupus ban đỏ, viêm khớp mạn tiến triển.
Các bệnh động mạch khác: viêm xơ động mạch, viêm động mạch ở người già.
1.2.2. Viêm nhiều dây thần kinh do biến dưỡng
a. Bệnh tiểu đường
Thường ở bệnh nhân 40 - 60 tuổi, mắc bệnh tiểu đường lâu năm có các biểu hiện bệnh động mạch ở 2 chi dưới. Có 3 thể lâm sàng:
Viêm nhiều dây Thần kinh tiến triển (tổn thương Thần kinh đùi, Thần kinh hông khoeo ngoài, Thần kinh da đùi):
+ Giảm vận động, teo cơ nhanh, dị cảm và đau.
+ Rối loạn cảm giác khách quan ít.
+ Phản xạ gót giảm nhiều hơn gối.
+ Tổn thương một số dây Thần kinh sọ não: III, V, VI, VII.
+ Viêm đau tiệm tiến:
• Có hội chứng đau: cơn đau xảy ra từng đợt về đêm.
• Các dây Thần kinh bị tổn thương: Thần kinh tọa, Thần kinh đùi, Thần kinh da - đùi, Thần kinh liên sườn, đám rối Thần kinh cổ - cánh tay, Thần kinh V.
• Giảm cảm giác nóng lạnh, mất phản xạ co dựng lông
• Bệnh giảm khi bệnh tiểu đường được kiểm soát.
Viêm các dây Thần kinh sọ não: hiếm gặp. Một trường hợp được ghi nhận là liệt vận nhãn tái đi tái lại và thay đổi bên.
b. Bệnh porphyrie cấp
Tuổi mắc bệnh 20 - 40 tuổi, nữ nhiều hơn nam, có tính cách gia đình, xuất hiện có cơn bộc phát.
Khởi đầu là dị cảm và đau, không có rối loạn cảm giác khách quan (có khi biểu hiện bằng triệu chứng đau bụng, bệnh cảnh có thể rất phức tạp với các biểu hiện trung ương: rối loạn tâm Thần, co giật, triệu chứng tháp).
Liệt cơ duỗi bàn tay và ngón tay, teo cơ xảy ra nhanh, ít khi gây liệt 2 chi dưới và không thấy tổn thương các dây sọ.
Triệu chứng thiểu năng tuần hoàn động mạch: co thắt mạch máu võng mạc, mạch ngoại biên, có những cơn đau thắt ngực, cơn cao huyết áp.
Tiến triển bệnh chậm.
Tìm cách chẩn đoán bằng yếu tố gia đình và tìm thấy acid aminolevulinic và porphobilinogen tăng trong nước tiểu.
1.2.3. Viêm nhiều dây thần kinh trong các bệnh về máu và các bệnh ác tính
Trong bệnh Vaquez do tắc mạch máu đến nuôi riêng dây Thần kinh, các bệnh rối loạn hồng cầu trong máu như bệnh hồng cầu cực đại, bệnh của hệ võng nội mạc lành tính hoặc ác tính, thường có 2 bệnh cảnh:
Liệt 2 chi dưới hoặc 4 chi: khởi đầu với một bên, không đối xứng, có các cơn đau rất dữ dội, rối loạn vận động, teo cơ nhiều, tổn thương các dây Thần kinh sọ. Thường gặp trong bệnh bạch huyết lympho bào, ung thư nội tạng.
Viêm ít dây Thần kinh, liệt các dây Thần kinh sọ não V, VII, Thần kinh tủy sống, Thần kinh quay, Thần kinh trụ, Thần kinh tọa, giống trong bệnh Besnier Boeck Schaumann.
1.2.4. Viêm nhiều dây thần kinh trong các bệnh nhiễm trùng
Thường xảy ra cùng lúc hoặc sau các bệnh nhiễm trùng có làm tổn thương ở thân các dây Thần kinh. Thường gặp trong bệnh thương hàn, viêm phổi, lậu, kiết lỵ, sốt rét, lao, giang mai.
Các nguyên nhân tán trợ của bệnh: rối loạn dinh dưỡng, uống rượu, ngộ độc thuốc (INH), Zona, phong.
1.2.5. Viêm nhiều dây thần kinh trong các bệnh do nhiễm độc
a. Oxyd carbon
Tổn thương của nhiều dây Thần kinh, có khi biểu hiện giống viêm đa dây Thần kinh. Tổn thương được ghi nhận nơi các mạch máu nuôi Thần kinh và có hiện tượng xuất huyết nơi thân dây Thần kinh.
b. Nhiễm độc barbiturat và sulfamid: ít khi gặp
c. Các loại huyết thanh
Viêm Thần kinh cánh tay, Thần kinh đùi, Thần kinh hông khoeo ngoài phải, Thần kinh cơ hoành, Thần kinh trụ trái.
1.2. Điều trị
Việc điều trị tùy theo nguyên nhân:
− Corticoid, các thuốc chống dị ứng, nivaquin cho viêm nút quanh động mạch.
− Sulfon trong điều trị phong.
− Điều trị đúng mức bệnh tiểu đường.
− Điều trị với thuốc kháng viêm thông thường, sinh tố nhóm B, thuốc giảm đau, chỉnh hình để phòng ngừa các biến chứng của chi. Giá trị của thuốc giãn mạch còn chưa rõ.
C . VIÊM ĐA RỄ DÂY THẦN KINH
Viêm đa rễ dây Thần kinh (polyradiculonévrites) là danh từ chỉ bệnh lý tổn thương bao myelin của Thần kinh ngoại biên. Bệnh có tính chất lan tỏa, đối xứng, không trừ những thành phần gần của Thần kinh ngoại biên (rễ trước và đám rối Thần kinh là vùng hay bị tổn thương nhất) cũng như dây Thần kinh sọ não. Nguyên nhân của viêm đa rễ dây Thần kinh có rất nhiều. Có 2 thể lâm sàng chính: cấp (hội chứng Guillain - Barré do Guillain G. và cộng sự giới thiệu đầu tiên năm 1916) và mạn.
1. Viêm đa rễ day thần kinh cấp
1.1. Dịch tễ học
Tỷ lệ mắc bệnh hằng năm là 1/100.000.
Tuổi hay gặp là từ 20 - 50 tuổi. Xuất hiện ở 2 giới ngang nhau.
1.2. Nguyên nhân
Nguyên nhân của bệnh chưa rõ ràng. Người ta ghi nhận được trong 2/3 trường hợp, khoảng 1 - 4 tuần trước khi hội chứng bệnh này xuất hiện, bệnh nhân có một giai đoạn nhiễm virus đường hô hấp trên, hiếm hơn là một hội chứng tiêu hóa. Những nghiên cứu đã phát hiện những trường hợp nhiễm trùng Cytomegalovirus và nhất là Campylobacter jejuni. Hiếm khi thấy xuất hiện hội chứng Guillain - Barré trên những bệnh nhân nhiễm virus mà không xác định được như Zona, Varicelle, MNI (Epstein Barr) hay bệnh Hodgkin, lymphome, LED, sarcoidose hay những người nhiễm HIV.
1.3. Lâm sàng
Hình ảnh lâm sàng nổi bật của hội chứng Guillain - Barré là tình trạng liệt mềm cấp, mất các phản xạ. Diễn tiến bệnh bao gồm 3 thời kỳ: thời kỳ liệt phát triển, thời kỳ đứng yên và thời kỳ phục hồi. Thời kỳ phát triển của liệt không kéo dài quá 4 tuần. Thời kỳ đứng yên rất thay đổi, nhìn chung từ 2 - 4 tuần nhưng đôi khi kéo dài nhiều tháng. Việc phục hồi, trong phần lớn trường hợp, thường khỏi hoàn toàn hoặc gần hoàn toàn.
Triệu chứng khởi phát có thể: chỉ là dị cảm hoặc rối loạn cảm giác kết hợp với yếu liệt hoặc chỉ có yếu liệt cơ. ít hơn, có thể thấy bệnh khởi phát với liệt đầu tiên ở gốc chi hoặc ở Thần kinh sọ não, đặc biệt là liệt mặt 2 bên. a. Liệt
− Dù do khởi phát cách nào thì chỉ sau vài ngày, liệt cũng trở nên rõ ràng, liệt có tính chất đối xứng. Đầu tiên liệt ở phần xa của chi, sau đó lan nhanh đến các gốc chi và thân (có khuynh hướng liệt hướng lên).
Liệt có mức độ nặng nhẹ rất thay đổi: từ chỉ liệt nhẹ đến liệt tứ chi hoàn toàn. Đặc tính nổi bật là liệt mềm, giảm hoặc mất phản xạ gân cơ.
− Đau nhức cơ, đặc biệt là cơ dọc sống lưng, rất thường thấy và kết hợp với tình trạng tăng men cơ/máu.
− Liệt đồng đều ở các phần của tay chân hoặc ở ngọn chi nặng hơn gốc chi (nếu liệt ở gốc chi nặng hơn thì gọi là thể giả bệnh cơ). Liệt hai chi trên thường nhẹ và xảy ra sau hai chi dưới.
− Liệt cơ ở thân, liệt cơ bụng, các cơ hô hấp dẫn đến tình trạng suy hô hấp cấp đòi hỏi người thầy thuốc phải chú ý khám đi khám lại nhiều lần để phát hiện sớm và chuyển ngay bệnh nhân sang hồi sức cấp cứu (tình trạng này chiếm 15%).
− Liệt các dây Thần kinh sọ não: liệt dây VII (50-69%) thường liệt cả 2 bên
Liệt dây IX. X xuất hiện với tỷ lệ gần tương đương như liệt dây VII gây liệt hầu họng, liệt dây thanh âm 1 bên hoặc 2 bên. Các dây Thần kinh sọ não khác ít bị tổn thương hơn. b. Rối loạn cảm giác
− Rối loạn cảm giác chủ quan: rất rõ, bệnh nhân có cảm giác bị tê, có cảm giác như bị châm chích, kiến bò.
− Rối loạn cảm giác khách quan: thường phát hiện giảm cảm giác nhận biết tư thế và rung âm thoa. Trong vài trường hợp dẫn đến thất điều. c. Rối loạn thực vật
− Rất thường xuyên, từ nhịp nhanh xoang đến rối loạn nhịp tim và huyết áp trầm trọng làm tăng nguy cơ tử vong.
− Rối loạn cơ tròn như bí tiểu, giảm hoặc mất cảm giác đi tiểu, táo bón thường xảy ra hơn.
− Rối loạn vận mạch và giao cảm: ra nhiều mồ hôi, da tái, phù nề chi bị liệt.
Trong một vài trường hợp hiếm, người ta ghi nhận được dấu hiệu Babinski (+), phù gai thị và có khi lú lẫn tinh Thần.
Thể lâm sàng hiếm (thể Miller Fisher) được báo cáo năm 1956. Đây là thể lâm sàng hiếm gặp (< 4%). Bệnh cảnh gồm liệt cơ vận nhãn, thất điều và mất phản xạ gân cơ.
1.4. Cận lâm sàng
− Dịch não tủy: là xét nghiệm quan trọng. Rối loạn của xét nghiệm này chỉ xuất hiện sau 1 tuần (đôi khi rất trễ, khoảng tuần thứ 4 - 6) và có thể âm tính ở 10% các trường hợp. Kết quả quan trọng để chẩn đoán là phân ly đạm - tế bào, protein khoảng 50mg% hoặc cao hơn trong khi các thành phần khác của dịch não tủy không thay đổi.
− Điện cơ: giúp xác định bao myelin bị hư hoại khi có dấu bất thường trong dẫn truyền xung động Thần kinh như kéo dài thời gian tiềm ẩn, giảm tốc độ dẫn truyền…. Cũng có thể thấy dấu hiệu của thoái hóa sợi trục (thứ phát sau thoái hóa myelin).
1.5. Diễn tiến
Nhờ vào những tiến bộ trong trị liệu mà tỷ lệ tử vong của Guillain - Barré đã giảm đáng kể từ 33% xuống dưới 5%. Phần lớn các bệnh nhân đã phục hồi hoàn toàn và trở lại làm việc bình thường sau 3 - 6 tháng. Có 1/5 trường hợp còn than phiền yếu cơ sau 1 năm. Có thể nói rằng, sau 18 tháng mà di chứng vẫn còn thì rất ít có hy vọng hồi phục. Có khoảng 15% trường hợp vẫn còn di chứng và 5% là di chứng nặng nề.
Các yếu tố làm tiên lượng trở nên xấu:
− Bệnh nhân trên 40 tuổi.
− Thời gian liệt phát triển: nhanh < 7 ngày.
− Bệnh nhân cần giúp thở.
− Thời gian liệt đứng yên > 3 tuần.
− Phản ứng cơ với kích thích ở ngọn chi: yếu (Mc Khann G.M. và cộng sự 1988).
Tình trạng tái phát rất hiếm (3%) và đòi hỏi phải tìm cho ra nguyên nhân.
1.6. Chẩn đoán phân biệt
Viêm đa rễ dây Thần kinh do giang mai và bệnh Lyme: chủ yếu dựa vào tính chất không đối xứng và có đau, trong dịch não tủy có tăng tế bào.
Cần làm xét nghiệm chẩn đoán giang mai (VDRL,…) hoặc phản ứng huyết thanh xác định có Borrelia burgdorferi.
Viêm đa rễ dây Thần kinh nhiễm xoắn khuẩn Leptospira idero hemorragiae: dấu viêm đa rễ dây Thần kinh có thể xuất hiện sớm trong thời kỳ cấp của bệnh nhưng cũng có khi xuất hiện trễ trong thời kỳ hồi phục của bệnh. Dấu lâm sàng có thể là tổn thương một sợi Thần kinh (thường là Thần kinh sọ não) rễ Thần kinh hoặc đám rối Thần kinh. Dấu hiệu viêm đa dây Thần kinh thường trầm trọng. Chẩn đoán xác định bằng điện cơ (dấu tổn thương sợi trục) và sinh thiết (thâm nhiễm các monocyt).
Viêm đa rễ dây Thần kinh do Brucella: thường xuất hiện trễ hơn là sớm. Bệnh cảnh có thể là viêm đa rễ dây Thần kinh có tính chất không đối xứng hoặc tổn thương Thần kinh sọ não (VIII, VI, VII, XI) hoặc tổn thương một sợi Thần kinh. Dịch não tủy có tăng đạm và tế bào (chủ yếu là lympho bào). Phản ứng huyết thanh Wright (+)
Viêm đa rễ dây Thần kinh do bạch hầu: thường thì bệnh này gây liệt vòm hầu (nói giọng mũi, sặc thức ăn lên mũi). Cần chẩn đoán phân biệt với bệnh này trong trường hợp có biến chứng muộn của bệnh nhi khi 2-3 tháng sau thấy xuất hiện dấu viêm đa rễ dây Thần kinh. Bệnh thường khởi phát với liệt điều tiết của mắt (gây khó khăn khi đọc và khi nhìn gần). Dịch não tủy thấy xuất hiện nhiều tế bào lympho.
1.7. Điều trị
− Phòng ngừa các biến chứng do nằm lâu: nhiễm trùng hô hấp, suy hô hấp cấp.
− Thay huyết tương: nghiên cứu hợp tác năm 1987 của Pháp và Mỹ đã chứng minh việc thay huyết thanh 4 lần đã cho kết quả đáng tin cậy (67% so với 44% ở lô chứng). Nghiên cứu này cũng khuyên thay huyết tương nên khởi đầu 15 ngày sau khi bệnh khởi phát.
− Dùng liều cao immunoglobulin: đang nghiên cứu.
2. Viêm đa rễ dây thần kinh mạn
Quan niệm về bệnh lý này bao gồm những trường hợp viêm đa rễ dây Thần kinh hoặc tái phát, hoặc kéo dài hoặc không đáp ứng với corticoid. Năm 1975 Dick P.J. và cộng sự đã định nghĩa bệnh và năm 1991 những tiêu chuẩn chẩn đoán đã được thiết lập như sau (research criteria for diagnosis of chronic inflammatory demyelinating polyneuropathy).
− Tiêu chuẩn lâm sàng: có 1/3 trường hợp có bệnh khởi phát như hội chứng Guillain - Barré (khởi phát với liệt có kèm hoặc không rối loạn cảm giác tứ chi, đối xứng).
Liệt chủ yếu ở các tiết đoạn gốc chi và rối loạn cảm giác chủ yếu là bản thể (nhận biết tư thế, cảm giác rung).
Mất phản xạ gân cơ một phần hay toàn thân.
Tổn thương dây Thần kinh sọ não.
Suy hô hấp có thể có nhưng ít hơn thể cấp.
Rối loạn thực vật, teo cơ, đau nhức: ít gặp hơn.
− Tiêu chuẩn diễn tiến: tiến triển kéo dài trên 6 tháng với những đợt tái phát, mắc lại hoặc không đáp ứng với trị liệu steroid.
− Tiêu chuẩn sinh hóa: 80% có phân ly đạm tế bào.
− Tiêu chuẩn điện cơ: tốc độ dẫn truyền Thần kinh giảm 70% với tổn thương thoái hóa myelin. Những dấu chứng của blốc dẫn truyền thường xuất hiện nhiều hơn trong thể cấp.
− Tiêu chuẩn sinh thiết: thoái hóa myelin và tẩm nhuận tế bào viêm.
− Điều trị kết quả tốt với corticoid, ức chế miễn dịch, thay huyết tương và truyền immunoglobulin tỏ ra có hiệu quả 60 - 80%.
III. Bệnh lý tổn thương thần kinh ngoại bien theo y học cổ truyền
1. Nguyên nhân và cơ chế sinh bệnh
Bệnh lý Thần kinh ngoại biên là danh từ bệnh học YHHĐ và không có từ đồng nghĩa trong bệnh học y học cổ truyền (YHCT). Từ đồng nghĩa dễ gặp giữa YHHĐ và YHCT là các triệu chứng, ví dụ: “dị cảm, tê” với “ma mục”, “yếu liệt” với “nuy chứng” (triệu chứng học YHCT, trang 53 - 55).
Qua việc phân tích cơ chế bệnh sinh toàn bộ các chứng trạng thường gặp của YHCT trong bệnh lý bệnh lý tổn thương Thần kinh ngoại biên, có thể biện luận về cơ chế bệnh sinh theo YHCT như sau:
Do ngoại tà như phong, hàn, thấp gây bệnh. Phong, hàn, thấp thừa cơ vệ biểu suy yếu mà xâm nhập làm kinh lạc bị tắc trở sinh ra chứng tê. Tùy theo tính chất của tê mà định được loại tà khí gây bệnh (phong tính hay động, lưu ở bì phu nên tê có cảm giác như trùng bò; thấp có tính nặng nề và ảnh hưởng đến phần cơ; hàn tính nê trệ và dễ tổn thương dương khí).
Do bệnh lâu ngày, ẩm thực bất điều hoặc phòng thất không điều độ làm thể chất suy yếu, khí bị hư suy. Khí hư dẫn đến vệ ngoại bất cố, phong hàn thấp tà dễ xâm nhập; đồng thời, khí hư dẫn đến khí trệ làm huyết không được vận hành. Toàn bộ cơ chế trên dẫn đến kinh mạch bị rỗng, da cơ không được ôn ấm và nuôi dưỡng làm xuất hiện triệu chứng tê.
Do huyết dịch không đầy đủ (sau sinh, thiếu máu hoặc bệnh lâu ngày): tân và huyết có tác dụng tư nhuận và nhu dưỡng cơ da. Tân và huyết thiếu khiến kinh lạc, cơ, biểu, bì mao không được nuôi dưỡng gây nên chứng tê; nặng sẽ đến chứng nhục nuy.
Do đàm uất ủng trệ gây trở tắc kinh lạc: đàm thấp có thể do ăn uống không đúng cách gây tổn hại tỳ vị hoặc do thận dương suy không khí hóa được nước làm sinh đàm.

Hình 26.1. Sơ đồ bệnh lý tổn thương Thần kinh ngoại biên theo YHCT
2. Triệu chứng lâm sàng
YHCT phân chia thành 6 thể lâm sàng
2.1. Phong hàn thấp bế
Đặc điểm nổi bật của thể bệnh này là tê và đau nhức cơ tăng khi trời lạnh, ẩm thấp. Bệnh nhân thường thích được chườm ấm tại chỗ tê, đau.
Người sợ lạnh, chân tay lạnh, lưng gối mỏi.
Rêu lưỡi mỏng trắng hoặc trắng nhớt, chất lưỡi nhạt.
Mạch phù huyền khẩn.
2.2. Thấp nhiệt bế
Triệu chứng tê thường xuất hiện ở chân. Người thấy nặng nề kèm đau nhức hoặc có cảm giác rát nóng, sờ bên ngoài da thấy nóng.
Lưỡi đỏ, rêu vàng nhớt.
Mạch huyền sác hoặc tế sác.
2.3. Khí hư thất vận
Tê tứ chi, tê nhiều ở đầu chi; nhấc chi lên khó khăn, mất lực. Tình trạng này sẽ tăng lên khi gặp lạnh (trời lạnh, nhúng tay chân vào nước lạnh) hoặc làm việc.
Sắc mặt nhợt, không bóng, thiếu hơi, đoản khí, mệt mỏi, thích nằm.
Sợ gió, sợ lạnh, ăn kém, đại tiện lỏng, dễ bị cảm.
Lưỡi nhạt bệu, rìa có dấu răng, rêu trắng mỏng.
Mạch trầm nhu.
2.4. Huyết hư thất vinh
Chân tay tê, da trắng khô, người gầy yếu.
Mặt môi nhợt kèm chóng mặt, hoa mắt, mất ngủ, hay quên.
Tâm quý, chính xung.
Chất lưỡi nhạt.
Mạch trầm tế.
2.5. Âm hư phong động
Tê nhiều kèm run nhẹ, có lúc có cảm giác như trùng bò.
Người gầy khô kèm hoa mắt, chóng mặt, ù tai.
Mất ngủ, hay mộng mị.
Lưng gối nhức mỏi.
Chất lưỡi đỏ tối, rêu mỏng.
Mạch trầm tế.
2.6. Đàm uất trệ
Tê kéo dài, vị trí tê cố định, có cảm giác căng, ấn vào thấy dễ chịu.
Kèm váng đầu, nặng chi hoặc có cảm giác tức ngực.
Chất lưỡi tối hoặc có vết bầm, rêu nhớt.
Mạch trầm sáp hoặc huyền hoạt.
3. Điều trị
3.1. Điều trị bằng thuốc
3.1.1. Thể phong hàn thấp bế
Pháp trị: khu phong tán hàn, sơ thấp trục tà, ôn kinh thông lạc.
Bài thuốc điều trị: Quyên bế thang + Quế chi thang (gồm: khương hoạt 8g, độc hoạt 8g, tần cửu 10g, quế chi 8g, bạch thược 6g, đương quy 12g, xuyên khung 8g, tang chi 8g, xuyên ô (chế) 6g, hải phong đằng 10g, kê huyết đằng 10g, sinh cam thảo 6g).
Phân tích bài thuốc:


Vị thuốc Tác dụng Vai trò của các vị thuốc
Khương hoạt Ngọt, đắng, bình, không độc: trừ phong, chữa tê ở chi trên Quân
Độc hoạt Ngọt, đắng, bình, không độc: trừ phong, chữa tê ở chi dưới Quân
Tần cửu Đắng, cay, bình: hoạt huyết, trấn thống
Quế chi Cay ngọt, đại nhiệt, hơi độc: trị cố lãnh trầm hàn, giải biểu Quân
Bạch thược Chua đắng, hơi hàn: nhuận gan, dưỡng huyết, liễm âm Thần
Đương quy Ngọt, cay, ấm: bổ huyết, hành huyết Thần
Xuyên khung Đắng, ấm: hành khí, hoạt huyết, khu phong, chỉ thống
Tang chi Đắng, bình: khử phong thấp, lợi quan tiết; chữa tê, đau nhức
Xuyên ô (chế) Cay, ngọt, tính đại nhiệt, có độc: bổ hỏa, trục phong hàn, thấp tà Thần
Nhũ hương Đắng, cay, hơi ấm: điều khí, hoạt huyết
Kê huyết đằng Đắng, bình, khử phong, thông kinh lạc
Sinh thảo Ngọt, bình: bổ tỳ vị, nhuận phế, thanh nhiệt giải độc, điều hòa các vị thuốc Sứ
3.1.2. Thể thấp nhiệt bế
Pháp trị: thanh lợi thấp nhiệt, sơ kinh thông lạc.
Bài thuốc điều trị: Tam diệu hoàn gia giảm (gồm: thương truật 10g, hoàng bá 6g, ngưu tất 10g, hải phong đằng 10g, kê huyết đằng 10g, địa long 6g, khương hoàng 9g, phòng kỷ 10g, nhũ hương 6g).
Phân tích bài thuốc:
Vị thuốc Tác dụng Vai trò của các vị thuốc
Thương truật Cay, đắng, ấm vào tỳ vị: kiện tỳ, táo thấp, phát hãn Quân
Hoàng bá Đắng, hàn, vào thận, bàng quang: trừ hỏa độc, tư âm, thanh nhiệt táo thấp Quân
Ngưu tất Chua, đắng, bình: bổ can thận, tính đi xuống
Phòng kỷ Rất đắng, cay, lạnh: khử phong, hành thủy, tả hạ, tiêu huyết phận, thấp nhiệt Thần
Địa long Mặn, hàn: thanh nhiệt, trấn kinh, lợi tiểu, giải độc Quân
Khương hoàng Cay, đắng, ôn vào tỳ, can: hành huyết, phá ứ, hành khí giải uất
Nhũ hương Đắng, cay, hơi ấm: điều khí, hoạt huyết
Kê huyết đằng Đắng, bình, khử phong, thông kinh lạc
Sinh thảo Ngọt, bình: bổ tỳ vị, nhuận phế, thanh nhiệt giải độc, điều hòa các vị thuốc Sứ
3.1.3. Thể khí hư

(Nội dung này có nhiều phần, xem phần tiếp theo bên dưới)
Nguồn: Bệnh học và Điều trị nội khoa
NXB Y Học - 2007
Chủ biên: PGS.TS. Nguyễn Thị Bay

1 nhận xét: